Mới đây tại hội thảo “Cơ chế, chính sách, giải pháp đảm bảo phát triển năng lượng Việt Nam bền vững” do Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tổ chức, các chuyên gia đã có nhiều tham luận đáng chú ý, trong đó có tham luận về “Những thách thức trong đảm bảo an ninh cung cấp điện của Việt Nam”.
Tại hội thảo đại diện Hiệp hội Năng lượng Việt Nam và các chuyên gia đã phân tích, tổng hợp nhằm đánh giá các vấn đề từ tổng quát đến chi tiết cụ thể về phát triển năng lượng Việt Nam, cơ cấu của các nguồn năng lượng tái tạo trong mục tiêu chung đảm bảo an ninh năng lượng.
Các nội dung cụ thể gồm: Tiềm năng của các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT), nhất là điện gió, điện mặt trời một trong mục tiêu chung đảm bảo an ninh năng lượng và chuyển đổi năng lượng tiến tới trung hòa cacbon, những điểm nghẽn, thách thức trong phát triển và điều hành hệ thống.
I. Năng lượng tái tạo trong tổng thể năng lượng quốc gia
Năng lượng tái tạo trong tổng quan chung những thách thức nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh cung cấp điện của Việt Nam nằm trong tổng thể của quy hoạch điện VIII:
1. Về điện gió
Hiện nay chúng ta chưa có các khảo sát trong nước chi tiết về tiềm năng nguồn năng lượng gió trên toàn quốc. Tuy nhiên, theo các khảo sát, đánh giá sơ bộ, tiềm năng điện gió trên bờ của Việt Nam khoảng 217 GW, điện gió ngoài khơi trên 160 GW.
Đặc điểm của điện gió ngoài khơi là có số giờ vận hành thiết bị khá cao. Với cơ chế khuyến khích của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018, hiện nay đã có 3.980 MW điện gió đang vận hành, được công nhận Ngày vận hành thương mại (COD).
Tuy nhiên, còn một số dự án chưa hoàn thành kịp thời hạn quy định trước ngày 1/11/2021 và chưa được công nhận COD (trong tổng 8.171 MW đã ký hợp đồng mua bán điện – PPA với EVN). Tính đến tháng 12/2020 đã có tổng khoảng 13.000 MW điện gió đã được phê duyệt bổ sung trong QHĐVII (điều chỉnh). Tuy nhiên, hiện chúng ta chưa có dự án điện gió ngoài khơi nào được triển khai đầu tư.
2. Về điện mặt trời
Tiềm năng kinh tế – kỹ thuật về điện mặt trời (ĐMT) nước ta được ước tính khoảng 434 GW, bao gồm ĐMT mặt đất (309 GW), trên mặt nước (77 GW) và ĐMT trên mái (48 GW).
Nhờ cơ chế khuyến khích của Chính phủ, chỉ từ năm 2019 đến nay đã có trên 16.400 MW nguồn điện mặt trời được đưa vào vận hành, trong đó có 7.755 MW nguồn điện mặt trời trên mái.
Các nguồn điện mặt trời tập trung hầu hết ở miền Nam và miền Trung, hiện đang gây nghẽn lưới truyền tải điện tại các khu vực có nhu cầu điện thấp, nhưng nguồn điện mặt trời đưa vào cao hơn nhiều lần so với nhu cầu, trong khi lưới điện chưa theo kịp.
Năm 2021, theo EVN, sản lượng điện không khai thác được của các nguồn năng lượng tái tạo nói trên tăng lên, đạt khoảng 1,68 tỷ kWh (trong đó, tiết giảm 1,25 tỷ kWh điện mặt trời và 430 triệu kWh điện gió, tương đương khoảng 7 – 9% sản lượng khả dụng các nguồn điện này).
Với xu thế toàn cầu chuyển dịch sang các nguồn năng lượng sạch, giá cả thiết bị ĐMT đã giảm tới 7- 8 lần từ năm 2010 và “cầu ắt sinh cung”, các tiến bộ công nghệ cho thấy trong tương lai giá thiết bị điện mặt trời và điện gió còn tiếp tục giảm, trong khi hiệu suất tăng lên.
Chính vì thế, các nguồn điện gió, điện mặt trời là một trong những chìa khóa cho mục tiêu chuyển đổi năng lượng và trung hòa cacbon của Việt Nam. Chuyển đổi sang năng lượng xanh không chỉ để thực hiện cam kết, mà hướng tới cuộc sống xanh cho tương lai.
Có thể nói, hiện đang có nhiều thách thức lớn về đảm bảo an ninh cung cấp điện, chưa kể các cơ chế khuyến khích các nguồn điện mặt trời và điện gió đang dừng lại, gây bất ổn cho nhà đầu tư.
Nếu không có các chính sách, giải pháp hợp lý và khuyến khích đúng mức, tính khả thi của quy hoạch điện VIII sẽ rất nhiều rủi ro, cả trong phát triển các nguồn chạy nền, cũng như các nguồn năng lượng tái tạo.
II. Kiến nghị của các chuyên gia
Đại diện của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cùng các chuyên gia kiến nghị các giải pháp ở mảng năng lượng tái tạo, trong mục tiêu chung nhằm tăng tính khả thi của Quy hoạch điện VIII, đảm bảo an ninh cung cấp điện, chuyển dịch năng lượng.
1. Với nguồn điện mặt trời
Kiến nghị các cơ quan quản lý rà soát, ban hành các quy định hợp lý, liên tục và dự đoán được để tiếp tục cho phát triển các dự án điện mặt trời tập trung (nối lưới) nhằm tránh đứt gãy chuỗi cung ứng công nghệ, cũng như nguồn tài chính quốc tế và nguồn lực xã hội.
Đối với nguồn điện mặt trời trên mái, cần thiết cho tiếp tục phát triển, nhưng với quy định về tỷ lệ tự dùng bắt buộc, quy mô nhỏ (ví dụ dưới 100 kW), có hạn ngạch với từng khu vực địa lý, khuyến khích khu vực phía Bắc và chỉ phát phần dư điện năng lên lưới hạ, trung áp.
Về vấn đề này Việt Nam cần tham khảo bài học từ các nước trên thế giới, trong đó có nước Đức, họ đã làm rất khoa học và thành công. Cụ thể, nước Đức có quy mô điện lớn nhất EU, nhưng có tới 70% là nguồn điện mặt trời phi tập trung, chỉ phát vào lưới hạ áp.
Để tăng hiệu quả sử dụng điện gió, điện mặt trời, tận dụng giờ nắng, không lãng phí và tăng hiệu quả vận hành hệ thống điện, kiến nghị sớm ban hành cơ chế dịch vụ phụ trợ để phát triển các loại hình thủy điện tích năng, pin lưu trữ trong thị trường điện. Khuyến khích chuyển đổi sang sử dụng xe điện và trạm sạc điện…
2. Với nguồn điện gió
Sớm ban hành cơ chế đấu thầu dự án điện gió mang tính dài hạn, có phân kỳ để huy động nguồn vốn tư nhân. Đồng thời, có giá khuyến khích hơn với các dự án điện gió khu vực miền Bắc – nơi có tốc độ tăng nhu cầu điện cao nhất cả nước.
Cần thiết có các quy định rõ ràng và chặt chẽ để xúc tiến các dự án điện gió ngoài khơi. Do tính phức tạp hơn của điện gió ngoài khơi, thời gian cần từ 7-8 năm để hoàn thành khảo sát, đầu tư xây dựng, do đó, nếu các quy định chậm được ban hành, Việt Nam sẽ không có điện gió ngoài khơi trước năm 2030.
Để phát triển các nguồn NLTT và tích hợp với tỷ lệ cao vào hệ thống điện, việc nâng cấp, mở rộng lưới điện có vai trò quan trọng, và nhu cầu vốn cho lưới điện không hề nhỏ. Do vậy, cần thiết cho nghiên cứu, ban hành cơ chế khuyến khích với các thành phần lưới truyền tải điện từ NLTT, vì lưới này có thời gian vận hành thấp hơn, chậm thu hồi vốn.
Mặt khác, cơ quan quản lý cần sớm ban hành các văn bản dưới luật để thực hiện các nội dung sửa đổi trong Luật Điện lực vừa qua: “Thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải trên cơ sở đảm bảo quốc phòng, an ninh và theo quy hoạch phát triển điện lực”.
Nguồn: Tạp chí năng lượng Việt Nam.
